Ngay từ năm 1930, Ngài Henry Royce đã nhận ra rằng động cơ Rolls-Royce sáu xi-lanh thẳng hàng, mã lực lớn của ông đã đạt đến giới hạn kỹ thuật. Nói một cách đơn giản, Henry cảm thấy rằng không thể khai thác được nhiều công suất hoặc mô-men xoắn hơn kể cả khi nâng cấp khối động cơ này. Ông nhận ra rằng Rolls-Royce có nguy cơ mất vị thế trước các đối thủ Mỹ khi họ sản xuất những chiếc xe sang trọng với động cơ mạnh mẽ hơn nhiều ở cấu hình V8, V12 và thậm chí cả V16.
Royce có rất nhiều kinh nghiệm trong việc thiết kế động cơ máy bay V12 và Rolls-Royce cũng thành thạo trong việc chế tạo những khối động cơ này. Do đó, việc Royce tạo ra động cơ V12 cho mẫu xe kế nhiệm Phantom II vốn xuất hiện vào năm 1929 là một bước tiến hợp lý.
Động cơ mới của Royce thể hiện sự tiến bộ kỹ thuật đáng kể. Động cơ V12 mới ngắn hơn động cơ sáu xi-lanh thẳng hàng của Phantom II, với dung tích 7.3 lít so với mức dung tích 7.6 lít của người tiền nhiệm. Khối động cơ nhỏ gọn hơn này cho phép nắp ca-pô ngắn hơn và khoang hành khách lớn hơn, giúp người chế tạo xe có nhiều phạm vi hoạt động hơn so với mẫu xe Rolls-Royce trước đó. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất là động cơ mới mang lại sức mạnh gia tăng mà Royce đang tìm kiếm. Ở phiên bản đầu tiên, khối động cơ này có khả năng sản sinh mức công suất 165 mã lực so với 120 mã lực của Phantom II, tăng lên 180 mã lực ở những phiên bản sau đó.
Khung gầm cũng là một bước tiến lớn trong thiết kế và trong một lần đầu tiên khác của thương hiệu, Royce đã trang bị cho Phantom III hệ thống treo trước độc lập, một cải tiến giúp tăng đáng kể cả sự thoải mái khi lái xe và khả năng kiểm soát lái. Đặc biệt, nhóm thiết kế của ông cũng kết hợp rất nhiều tiến bộ kỹ thuật nhỏ hơn giúp giảm đáng kể việc truyền tiếng ồn, độ rung và độ khắc nghiệt do mặt đường kém gây ra. Tổng hợp lại, những bước phát triển này đã khiến Phantom III trở thành một trong những chiếc xe chạy êm ái và êm ái nhất trong những năm 1930. Khi được trang bị khung gầm nhẹ ưa thích của Royce, mẫu xe có khả năng đạt tốc độ 160 km/h.
Royce chứng kiến các phiên bản thử nghiệm của động cơ được hoàn thiện, nhưng ông không may đã qua đời vào tháng 4 năm 1933 xảy ra một năm trước khi những chiếc xe thử nghiệm đầu tiên sẵn sàng. 10 trong số những chiếc xe Phantom III thử nghiệm này được chế tạo từ năm 1934 đến năm 1937 với tên mã Spectre, một cái tên lâu đời vẫn tồn tại cho đến ngày nay khi được sử dụng trên mẫu xe chạy hoàn toàn bằng điện đầu tiên của thương hiệu này.
Khung gầm Phantom III được sản xuất đầu tiên có thân xe saloon do H. J. Mulliner chế tạo và được giao vào tháng 8 năm 1936. Tổng cộng có 710 chiếc đã được sản xuất trước khi Rolls-Royce ngừng sản xuất và chiếc Phantom III cuối cùng được bán ra vào tháng 6 năm 1940.
Các giám đốc của Rolls-Royce biết rằng, một khi hòa bình trở lại, họ sẽ hoạt động ở một thế giới rất khác và trong đó sẽ không có chỗ cho một chiếc ô tô có động cơ như Phantom III. So với trước đó, thương hiệu này sẽ phải tập trung sức lực vào những mẫu xe phù hợp với thời gian hơn, đồng thời tiếp tục xây dựng dựa trên các tiêu chuẩn về chất lượng và sự tinh tế mà Rolls-Royce mong đợi. Vì vậy, mặc dù có kỹ thuật xuất sắc, hiệu suất vượt trội và tiềm năng to lớn để phát triển hơn nữa, vòng đời ngắn ngủi của Phantom III đã kết thúc. Đây cũng chính là minh chứng lâu dài cho cả sự xuất sắc trong thiết kế và kỹ thuật của Phantom III cũng như tài năng nhìn xa trông rộng của người tạo ra mẫu xe này.
Tham khảo: Rolls-Royce